Vượt Biển
Bỗng nhiên cả một vùng biển sáng rực lên. Ánh
sáng như từ trên trời chiếu thẳng vào con tàu bé nhỏ tựa như ánh hào
quang đang tỏa xuống và bao bọc đám thuyền nhân nằm thiêm thiếp
trong khoang tàu. Mọi ngưới nhốn nháo choàng tỉnh dậy, rồi những âm
thanh chợt vang lên: tàu được vớt rồi, tàu
được vớt rồi!
Chiếc tàu
lớn lướt thật nhẹ quanh con tàu nhỏ trông như anh khổng lồ
đang đứng cạnh chú bé tí hon. Thang sắt được từ từ thả xuống, mọi
người bật dậy như lò so, những ánh mắt mất thần bỗng sáng lên
những tia hy vọng. Mọi người được thủy thủ đòan hướng dẫn lần lượt
lên tàu; phụ nữ và trẻ em đuối sức được
thủy thủ bế lên. Vài người thủy thủ bước xuống khoang tàu nhỏ, họ
đục đáy tàu cho vỡ ra một mãng nhỏ. Con tàu từ từ chìm xuống lòng
biển sâu: giã từ con tàu thân yêu, giã từ vùng biển chết để bước vào
một thế giới mới, thế giới của tự do, không hận
thù.
Hơn hai mươi năm qua rồi
nhưng những giây phút hãi hùng của những ngày lênh đênh trên biển
vẫn không hề xóa nhòa trong tâm tưởng của chúng tôi. .
.
Con tàu rời Cần Thơ vào môt
trưa tháng 5, tiến ra biển đông như một tàu đánh cá. Gần quanh đó là
những chiếc ghe tam bản cũng lầm lủi chèo theo, người ta nằm dấu kín
trong khoang ghe nhỏ hay thu mình dưới những tấm nứa, bó cây, hồi
hộp và căng thẳng. Khi trời choạng vạng tối, tàu ngừng lại tại
một ngã ba sông. Những chiếc ghe tam bản chèo
thật nhanh đến sát tàu , người ta cố gắng leo nhanh lên tàu, mạnh
người nào người ấy leo và tự tìm mộ chỗ ngồi cho mình, hỗn độn và vô
trật tự. Con tàu dài không quá 10 thước bỗng nhiên phải tiếp nhận
một số lượng người quá sức nên trở thành nặng nề, chao đảo. Cả trăm
người lớn nhỏ ngồi như nêm cối trong khoang thuyền nhỏ, tiếng gọi
nhau ơi ới, con tìm cha, vợ tìm chồng. Những chiếc ghe tam bản sau
khi đã chuyển hết mọi người qua tàu lớn đã bắt đầu quay đầu trở lại
đất liền.
Ngồi trong phòng lái nhìn
quang cảnh hỗn độn trước mắt nhưng tôi cũng chẳng có thì giờ để suy
nghĩ ngoài việc định hướng cho con tàu tiến ra cửa biển. Càng đi ra
ngoài gió càng mạnh và sóng càng cao. Không gian lặng im, không một
lời nói, không một tiếng động ngoại trừ âm thanh rù rì của máy tàu.
Ông thợ máy sau khi đi kiểm soát số lượng dầu nhớt nói nhỏ vào tai
tôi: ’’Dầu ít quá, chắc chỉ đi được chừng ba
bốn ngày là cạn’’. Hết hay không hết, còn hay không còn, cũng chỉ có
một con đường là trực chỉ biển đông, tất cả phó mặc cho số mệnh. Tôi
nghĩ vậy.
Đi được một lúc lâu người ta
đã bắt đầu ngửi thấy mùi gió biển, sóng đánh mạnh vào thành tàu làm
nước bắn tung toé vào trong khoang, nếm thử đã thấy vị mặn của muối.
Ráng đi một chút nữa là ra đến biễn đông chắc là thoát nạn. Ý nghĩ
thoát nạn vừa loé lên trong trí thì bỗng nhiên ánh sáng đèn pha từ
đâu rọi sáng một góc trời. Âm thanh của một chiếc tàu khác càng ngày
càng nghe rõ, đèn pha được quét qua quét lại, rõ ràng là tàu công an
biên phòng đang săn đuổi con tàu vượt biên bé nhỏ này. Tôi lấy một
quyết định táo bạo, chuyển hướng tàu và tiến nhanh vào vùng sóng lớn
với hy vọng thoát khỏi sự truy lùng của tàu biên phòng. Tàu bị sóng
nhồi dữ dội, mọi người nhốn nháo và những tiếng khóc bắt đàu vang
lên. Nhiều lúc tôi cũng phải nhắm mắt khi thấy những lớp sóng khổng
lồ đưa bỗng con thuyền lên thật cao và quật mạnh xuống tận hố sâu
của biển cả. Những giây phút ấy chỉ còn biết cầu phép lạ nhiệm mầu
cứu giúp. Con tàu cứ bị nâng lên đập xuống như trái bóng bàn suốt
một khoảng thời gian dài tưởng chừng không dứt. Có tiếng khóc, tiếng
ói mửa vang lên chung quanh... Cuối cùng rồi tiếng máy tàu công an
biên phòng cũng nhỏ dần, ánh đèn pha cũng biến dạng nơi chân trời.
Thoát nạn rồi! Tàu đi trở lại hướng cũ: tiếp tục phương đông mà
tiến.
Tròi sáng dần, mặt trời to
và đỏ hồng dần dần ló dạng cuối chân trời. Biển yên và gió nhẹ làm
mọi người tỉnh táo đôi phần, nước uống và thức ăn được phân phát.
Con tàu cứ thế lướt nhanh trên mặt biển. Gần trưa trời bắt đầu nắng
gắt, người ta tự tìm cách tránh nắng, mũ nón được đi lên, bạt vải
được căng ra trên khoang tàu nhỏ. Sau một ngày một đêm không ngủ vì
phải lái tàu, tôi cảm thấy thấm mệt. Một vài thanh niên xung phong
lên phụ lái. Sau khi chỉ dẫn các bạn thanh niên cách sử dụng hải bàn
cùng chỉ hướng đi, tôi tìm một chỗ dựa lưng trong phòng lái nhắm mắt
ngủ thiếp đi…
Không biết ngủ được bao lâu
nhưng khi tỉnh dậy thì thấy mặt trời đã ngả về tây. Tôi ngồi dậy lấy
ống nhòm nhìn ra phía trước, bóng dáng một đảo nhỏ mờ mờ hiện
ra trứơc mặt, tôi giật mình, sao chung quanh nhiều tàu đánh cá quá
vậy ? Đảo này là đảo gì đây? Tôi chồm mình lấy chiếc hải bàn thấy
tàu đang chạy hướng 210. Mấy thanh niên giải thích : ông thợ máy nói
chúng tôi lái hướng này, nhanh và gần. Tôi nắm tay lái chuyển hướng
90 và xã hết tốc độ cho tàu trở lại biển đông. Cái hải đảo mà
tàu vừa thấy chính là Côn đảo, đi về hướng ấy chắc chỉ làm mồi cho
công an biên phòng nữa thôi.
Con tàu cố gắng chạy
xa Côn đào càng nhanh càng tốt nhưng không kip rồi, hai ba chiếc tàu
cũng đang xả máy tiến về phía chiếc tàu con. Ông thợ máy cho mở thêm
máy phụ để tàu chạy nhanh hơn, nhưng chiếc tàu rượt đuổi càng lúc
càng gần, một vài tiếng súng được bắn lên trời.
Tôi vẫn cho tàu chạy hết ga, lại một loạt súng thị uy, tàu vẫn cố
gắng trốn chạy, súng nổ càng lúc càng gần, những lằn đạn sau này
không còn bắn lên trời nữa mà hướng thẳng đến con tàu, những tia đạn
xẹt trên mặt nước nghe thấy rợn người. Biết rằng không thể thoát
được nữa, tàu ngưng máy và dật dờ trôi trên biển chờ tàu biên phòng
tới.
Khi cách tàu chừng mười
thước, những họng súng được chĩa thẳng vào thuyền tị nạn. Rồi có
tiếng hét thật to: ‘‘Chủ tàu đâu, tài công đâu bơi qua đây’’. Không
có tiếng trả lời. Một vài phát súng nổ lên trời và câu hỏi lại được
vang lên lần nữa, sắc như dao và nghe thật tàn bạo. Từ trong thuyền
bỗng có tiếng trả lời: ’’Chủ tàu không đi theo, tàu này không có tài
công.’’ Tiếng nói chát chúa từ tàu biên phòng lại vang lên: ’’Một
đại diện trong tàu bơi qua đây nói chuyện’’. Im
lăng mộ lúc lâu, bỗng có một người đàn ông lớn tuổi hy sinh cho tất
cả mọi người, ông ta nhẩy xuống biển bơi qua tàu công
an.
Một lúc sau tàu biên
phòng từ từ cập vào chiếc thuyền vượt biên, những sợi giây thừng
được tung ra cột chặt hai tàu vào nhau. Người
đàn ông bước trở về tàu, ông ta cho biết tàu biên phòng đồng ý cho
tàu đi tiếp với điều kiện tiền và vàng bạc đem theo phải nộp hết cho
họ. Thế là người ta cởi nhẫn, tháo dây chuyền cùng gom góp tiền bạc
trao cho tàu biên phòng.
Tiền của vòng vàng đã được
trao nhưng con tàu vẫn bị cộ chặt, mọi người lo sợ, chuyện gì xẩy ra
nữa đây? Từ tàu biên phòng nhảy qua hai, ba tên công an, rồi một
người trong bọn lên tiếng:’’Cách mạng đã khoan hồng định thả cho đi,
nhưng các người đã không thành thật khai báo và nộp hết tiền và vòng vàng cho cách mạng, nên cách mạng sẽ kéo
tàu về Côn Sơn để xét xử. Con tàu bị kéo ngược lại, Côn Đảo càng
ngày càng hiện rõ. Có người trong tàu lên tiếng đề nghị tất cả bà
con trong tàu ai còn tiền và vàng thì đưa cho công an hết đi,
biết đâu lần này được thả; thế là người ta lại vét một lần nữa số còn lại trao tiếp cho bọn công an. Lại những lời
năn nỉ, lại những tiếng kêu xin, nhưng những tên công an mặt lạnh
như tiền vẫn tiếp tục kéo con tàu huớng về Côn đảo. Hình ảnh
tù đầy hiện ra trong tâm trí mọi ngưòi, những
khuôn mặt đau khổ chán chường, những ánh mắt đỏ hoe in dấu sự thất
vọng não nề, có người ngồi đọc kinh, có người lần tràng hạt. Chúa
Phật có nghe thấu những lời cầu nguyện hay
chăng?
Tàu đang tiến gần đảo bỗng
nhiên dừng lại, những sợi dây thừng đang cộ hai tàu được tháo rời
ra, một tiếng nói vọng ra từ tàu công an:
’’Chúng tôi thông cảm cho mấy anh, cho tàu đi tiếp đó, lấy hướng nam
mà đi ’’. Chiếc tàu biên phòng từ từ tách rời chiếc ghe bé nhỏ để
lại những ngỡ ngàng cho đám vượt biên. Sau vài phút định thần, tôi
định lại vị trí con tàu và sau đó xả hết máy tiếp tục cuộc viễn
dương vô định.
Sau một
đêm căng thẳng mọi người đã lấy lại được tinh thần nhưng vẫn không
dấu được những nét mét mỏi của những ngày dài trên biển, ngồi bó gối
đã mấy ngày nên bắt đầu thấy khó chịu. Số nước uống đem theo gần cạn
vì đêm trước trong khi tàu bị kéo về Côn đảo ngưòi ta đã sử dụng bừa
bãi số lượng dự trữ, giờ đây mọi người chỉ nhận được hai ba muỗng
nước mỗi ngày. Cơn nóng chói chan lại làm cho ngưòi ta mệt lả, bến
bờ vẫn chưa thấy chỉ thấy chung quanh biển cả mênh mông.
. . . . . . . .
Biển đêm nay thật êm, trời
trong và sáng, nhìn lên trời người ta có thể thấy rõ các chòm sao
Bắc Đẩu, Nam Tào, Đại Hùng Tinh, rồi Tiểu Hùng Tinh. Mặt trăng tròn
vằng vặc làm sáng cả một bầu trời. Tôi tính nhẩm, tàu đã đi được bốn
ngày bốn đêm rồi, như vậy hôm nay đúng là ngày rằm tháng tư âm lịch.
Những hình ảnh xa xưa chợt hiện lên trong ký ức, những ngày rằm
tháng tư theo mẹ lên chùa lễ Phật đễ kỷ niệm ngày Đức Phật Ðản Sanh.
Chùa đông như ngày hội, không khí vui và
đượm mùi trầm hương ngào ngạt, lòng tôi mở rộng đón nhận ánh mắt
nhân từ của Đức Phật, cảm thấy một niềm hạnh phúc vô biên. Hôm nay
cũng ngày Phật Đản, nhưng tôi ngồi đây cô đơn trên biển cả mênh
mông. Mẹ ở nhà chắc cũng chẳng an tâm vì không biết giờ này con của
mẹ đang trôi nổi ở phương trời nào. Nhưng có điều tôi chắc chắn là
khi lên chùa thế nào mẹ tôi cũng sẽ đọc kinh và cầu xin cho các con
các cháu đến bến bờ bình yên. Nghĩ đến đó thấy lòng mình ấm lại, tôi
nhắm mắt và thầm đọc bài kinh Bạch Y Thần Chú.
Bỗng nhiên cả một vùng biển
sáng rực lên. Ánh sáng như từ trên trời chiếu thẳng vào con tàu bé
nhỏ tựa như ánh hào quang đang tỏa xuống và bao bọc đám thuyền nhân
nằm thiêm thiếp trong khoang tàu. Ánh sáng kia phải chăng là hào
quang của Đức Phật đã hướng dẫn chiếc tàu đồ sộ đến cứu vớt
những người tỵ nạn khốn cùng này. Tôi tin tưởng như vậy vì tôi
hiểu rằng tàu chúng tôi đã được vớt ngoài biển đông đúng vào ngày
Phật Đản.
Ngô Thụy
Chương
Viết cho Mùa Phật
Đản |